Kênh giá trong lý thuyết elliott wave.
PHẦN 4: PHƯƠNG PHÁP VẼ KÊNH GIÁ VÀ KẾT HỢP TỶ LỆ FIBONACCI TRONG LÝ THUYẾT SÓNG ELLIOTT
Phương pháp vẽ kênh giá vận dụng trong lý thuyết sóng Elliott – Kênh giá trong lý thuyết elliott wave
I. Giới thiệu khái quát:
Vẽ kênh giá là phương pháp quan trọng không chỉ quyết định vị trí các sóng nội bộ mà còn dự đoán được các mục tiêu cho sóng kế tiếp.
Kênh giá là những đường xu hướng song song, ít nhiều cũng chứa toàn bộ dao động giá của một sóng. Dù các đường xu hướng của mô hình Triangle không song song nhưng chúng cũng được coi là kênh giá.
Dưới đây là minh họa kênh giá của mô hình sóng chủ và mô hình sóng điều chỉnh.
Các sóng thuộc cùng cấp độ sóng có thể được nhận diện bằng cách vẽ các kênh giá. Đặc biệt trong trường hợp các cấu trúc sóng chủ, sóng Zigzag và mô hình tam giác. Nếu những sóng này không tương xứng nhau thì nên tìm kiếm cách tính sóng tùy chọn khác.
II. Cách vẽ kênh giá và dự đoán mục tiêu sử dụng kênh giá:
1. Mục tiêu sóng 3 hoặc sóng C:
Vẽ một kênh giá ngay sau khi sóng 1 và sóng 2 hoàn thành. Nối điểm khởi đầu của sóng 1 (được đánh dấu là 0) với điểm cuối của sóng 2, sau đó vẽ một đường song song kéo từ đỉnh sóng 1.
Đường song song này có vai trò là mục tiêu tối thiểu của sóng 3 đang phát triển. Nếu sóng 3 không thể bức phá qua đường song song này hoặc không thể chạm đến nó thì có thể đó là sóng C chứ không phải là sóng 3.
Đường hỗ trợ từ 0 đến sóng 2 có vai trò là mức chặn. Khi đường này bị phá vỡ thì rất có khả năng sóng 2 hoặc B di chuyển phức tạp hơn vì thế sóng 3 hoặc C chưa bắt đầu hình thành.
Chú ý rằng sóng 3 thường là sóng mạnh nhất và sẽ vượt qua đường xu hướng trên.
2. Mục tiêu sóng 4:
Ngay sau khi sóng 3 hoàn thành thì có thể vẽ một kênh giá bằng cách nối điểm cuối của sóng 1 với điểm cuối của sóng 3 bằng một đường xu hướng rồi vẽ một đường song song từ điểm cuối của sóng 2. Bằng cách này có thể dự đoán mục tiêu sóng 4. Chú ý rằng thông thường đường nằm dưới từ sóng 2 sẽ bị phá vỡ một chút do hành động giá của sóng 4. Đường hỗ trợ này có vai trò là mục tiêu tối thiểu của sóng 4.
Nếu sóng 4 không đến gần được đường này thì đây là biểu hiện của một xu hướng rất mạnh. Có thể xu hướng giá vẫn đang ở sóng 3 hoặc sẵn sàng cho sự bức phá mạnh ở sóng 5.
3. Mục tiêu sóng 5:
(1) Phương pháp 1:
Ngay sau khi sóng 4 hoàn thành thì có thể vẽ một kênh giá nối điểm cuối của sóng 2 với điểm cuối của sóng 4 bằng một đường xu hướng sau đó vẽ đường song song từ điểm cuối của sóng 3. Bằng cách này có thể dự đoán mục tiêu sóng 5.
Thông thường sóng 5 sẽ không chạm đến đường xu hướng nằm trên, trừ khi song 5 theo mô hình mở rộng Extension5 hoặc khi sóng 3 tương đối yếu. Trong mô hình Extension5 với biểu hiện khối lượng giao dịch cao và các chỉ báo xung lượng mạnh mẽ thì hiện tượng vượt quá (throwover) có thể xuất hiện.
(2) Phương pháp 2:
Thường thì sóng 3 là sóng mạnh nhất cho thấy tốc độ di chuyển rất nhanh khi so sánh với sóng 1 và sóng 5. Nếu sóng 3 cho thấy một đợt tăng giá hoặc giảm giá gần như thẳng đứng thì vẽ một đường xu hướng nối sóng 2 với sóng 4 rồi vẽ đường song song từ sóng 1.
Đường song song này sẽ cắt qua sóng 3 và sẽ tạo mục tiêu cho sóng 5. Kinh nghiệm cho thấy đây là kênh giá rất có giá trị.
4. Mục tiêu sóng D và E:
Ngay sau khi sóng B hoàn thành thì có thể vẽ một đường xu hướng nối điểm khởi đầu sóng A với điểm cuối sóng B để định mục tiêu cho sóng D khi mô hình Triangle đang phát triển. Điều này chắc chắn hơn sau khi sóng C hoàn thành.
Ngay sau khi sóng C hoàn thành thì có thể vẽ đường xu hướng nối sóng A với điểm cuối sóng C để định mục tiêu sóng E. Hầu như không bao giờ sóng E dừng ngay tại đường xu hướng mà chỉ ghé sát đường xu hướng một cách nhanh chóng và tạm thời.
4. Mục tiêu trong mô hình Double Zigzag:
Việc vẽ một kênh giá là điều rất quan trọng để phân biệt các mô hình Double Zigzag với các mô hình sóng Impulse trong khi việc phân biệt chúng vốn khó khăn do chúng đều có đặc trưng sóng chủ. Các mô hình Double Zigzag có xu hướng chạm kênh giá gần như hoàn hảo trong khi ở mô hình Impulse thì sóng 3 thường phá vỡ ra khỏi kênh giá.
Kết hợp tỷ lệ Fibonacci trong lý thuyết sóng Elliott.
Dãy số Fibonacci là một dãy số toán học trong đó bất kỳ một số là tổng của 2 số đứng liền trước. Dãy số này được biểu diễn như sau: 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89, 144… Điều đáng chú ý nhất là tỷ lệ 1.618 là tỷ lệ vàng, nó rất phổ biến và là mối quan hệ đã được khám phá vào thời cổ đại. Ngoài ra tỷ lệ 0.618 là giá trị nghịch đảo của 1.618 cũng rất nổi bật khi phân tích quan hệ Fibonacci. Elliott đã không khám phá ra mối quan hệ Fibonacci song nó đã gây chú ý cho Elliott nhờ Charles Collins.
Các phép tính sóng các mô hình sóng chủ và sóng điều chỉnh (5 + 3 = 8) là theo dãy số Fibonacci và phân chia các mô hình sóng thành các sóng nội bộ tương ứng cũng hoàn toàn tạo ra dãy số Fibonacci.
Phân tích mối quan hệ Fibonacci giữa các dao động giá là việc rất quan trọng vì nhiều lý do.
Trước hết nó giúp kiểm soát sự phân tích sóng. Tỷ lệ Fibonacci từ phép tính sóng càng tốt thì phép tính sóng đó càng chính xác, vì theo cách này hoặc cách khác thì các sóng liên quan với nhau. Hơn nữa có thể dự đoán các mục tiêu hiện thực một khi xác định đúng phép tính sóng hoặc phân biệt được các viễn cảnh khác nhau.
Các sóng thường có liên quan với nhau theo các tỷ lệ 2.618, 1.618, 1, 0.618, 0.382 và 0.236. Điều này giúp ước tính các mục tiêu giá cho các sóng mở rộng.
Lấy ví dụ nếu sóng 1 hoặc A của bất kỳ cấp độ sóng hoặc khung thời gian đã hoàn thành thì có thể dự đoán tỷ lệ hồi lại ở mức 0.382, 0.50 và 0.618 đối với sóng 2 hoặc B để ước đoán các mục tiêu. Thường thì sóng 3 là sóng mạnh nhất vì thế sẽ thấy rằng sóng 3 xấp xỉ 1.618 lần sóng 1. Sóng 4 thường thể hiện mức hồi lại ít hơn sóng 2, khoảng 0.236 hoặc 0.382. Nếu sóng 3 là sóng dài nhất thì mối quan hệ giữa sóng 5 và sóng 3 thường là 0.618. Bên cạnh đó sóng 5 cũng bằng với sóng 1.
Mối quan hệ tương tự có thể tìm thấy ở giữa sóng A và sóng C. Thường thì sóng C bằng sóng A hoặc bằng 1.618 lần chiều dài sóng A.
Có thể kết hợp các sóng để tìm các vùng hỗ trợ và kháng cự. Chẳn hạn dao động giá thực của sóng 1 và 3 lần 0.618 tạo ra mục tiêu cho sóng 5.
(1) Mục tiêu sóng 1:
Sóng 1, một dao động giá mới theo sóng chủ, có xu hướng dừng tại chân của quá trình điều chỉnh trước đó, thường là sóng B. Điều này thường trùng với mức hồi lại 38.2% hoặc 61.8% quá trình điều chỉnh trước đó.
(2) Mục tiêu sóng 2:
Sóng 2 hồi lại ít nhất 38.2% nhưng chủ yếu là 61.8% hoặc nhiều hơn so với sóng 1. Nó thường dừng tại sóng 4 thuộc cấp độ sóng nhỏ hơn thuộc cấu trúc sóng bên trong sóng 1 và thường xuyên hơn tại sóng 2 thuộc cấp độ sóng nhỏ hơn của sóng 1. Mức hồi lại hơn 76% rất gây hoài nghi dù nó chưa phá vỡ quy luật nào cả.
(3) Mục tiêu sóng 3:
Sóng 3 ít nhất bằng sóng 1, trừ mô hình Triangle. Nếu sóng 3 là sóng dài nhất thì nó sẽ có xu hướng bằng 161.8% hoặc thậm chí bằng 261.8% sóng 1.
(4) Mục tiêu sóng 4:
Sóng 4 hồi lại ít nhất 23.6% sóng 3 nhưng thường chạm đến 38.2% sóng 3 và chạm đến vùng giá của sóng 4 thuộc cấp độ sóng thấp hơn trong sóng 3.
Trong các thị trường rất mạnh thì sóng 4 chỉ hồi lại 14% sóng 3.
(5) Mục tiêu sóng 5:
Sóng 5 thường bằng với sóng 1 hoặc đi một khoảng cách 61.8% chiều dài sóng 1. Nó cũng có thể có cùng quan hệ với sóng 3 hoặc có thể đi 61.8% chiều dài thực của cả sóng 1 và sóng 3 cộng lại. Nếu sóng 5 là sóng mở rộng thì nó sẽ đi 161.8% sóng 3 hoặc 161.8% chiều dài thực của sóng 1 và sóng 3 cộng lại.
(6) Mục tiêu sóng A:
Sau mô hình Diagonal Triangle trong sóng thứ 5 thì sóng A hồi về sóng 2 của mô hình Diagonal Triangle này. Khi sóng A là một phần của mô hình Triangle, sóng B hoặc sóng 4 thì nó thường hồi lại 38.2% của cả sóng 5 trước đó và đi vào phạm vi sóng thứ 4 của sóng 5 này. Trong mô hình Zigzag thì nó thường hồi lại 61.8% sóng 5 trước đó.
(7) Mục tiêu sóng B:
Trong mô hình Zigzag thì sóng B hầu như hồi lại 38.2% hoặc 61.8% sóng A. Trong mô hình Flat thì nó xấp xỉ bằng sóng A. Trong mô hình Expanded Flat thì nó thường đi một khoảng cách bằng 138.2% sóng A.
(8) Mục tiêu sóng C:
Sóng C có chiều dài ít nhất là 61.8% sóng A. Nó có thể ngắn hơn trong trường hợp mô hình thất bại (failure) báo trước sự tăng tốc xu hướng giá theo chiều ngược lại.
Nhìn chung sóng C bằng với sóng A hoặc đi một khoảng cách bằng 161.8% sóng A.
Sóng C thường đạt 161.8% chiều dài sóng a trong mô hình Expanded Flat.
Trong mô hình Contracting Triangle thì sóng C thường bằng 61.8% sóng A.
(9) Mục tiêu sóng D:
Trong mô hình Contracting Triangle thì sóng D thường đi 61.8% sóng B.
(10) Mục tiêu sóng E:
Trong mô hình Contracting Triangle thì sóng E thường đi 61.8% sóng C. Nó không thể dài hơn sóng C.
(11) Mục tiêu sóng X:
Sóng X tối thiểu hồi lại 38.2% quá trình điều chỉnh A-B-C trước đó; một mức hồi lại 61.8% cũng phổ biến đối với sóng X.